Theo dân gian, đinh lăng có hai loại chính: Đinh lăng nếp và đinh lăng tẻ.
Đinh lăng tẻ là loại lá to, vỏ thân xù xì, màu xanh nhạt, củ nhỏ, rễ ít và cứng, vỏ bì mỏng năng suất thấp. Loại này không nên trồng.
>>> Xem thêm: Kỹ thuật trồng và chăm sóc đinh lăng lấy củ
Đinh lăng nếp là loại lá nhỏ, xoăn; thân nhẵn, củ to, rễ nhiều và mềm, vỏ bì dầy cho năng suất cao và chất lượng tốt. Nên chọn loại này để trồng.
Khi chọn giống, chọn cành bánh tẻ hoặc phần ngọn của cây có màu nâu nhạt, chặt ra từng đoạn 25 - 30cm (dùng dao sắc để chặt, tránh bị dập 2 đầu). Không nên trồng cả cành dài vừa lãng phí giống vừa khó chăm sóc.
Thời vụ trồng đinh lăng
Cây đinh lăng là loại cây lâu năm, có thể sống đến vài chục năm, ưa ẩm, ưa sáng, chịu hạn tương đối, chịu bóng nhưng cây sẽ phát triển yếu, không chịu được ngập úng, cây sẽ bị héo úa và chết đi. Phân bố rộng khắp trên khắp cả nước, ở tất cả các vùng sinh thái, có thể phát triển trên nhiều loại đất nhưng tốt nhất là đất pha cát. Cây phát triển mạnh khi nhiệt độ dưới 28 độ C. Mùa Thu và mùa Xuân cây phát triển nhanh nhất.
Người nông dân nên trồng vào mùa xuân, từ tháng 1-4. Vào mùa hè, cây được trồng cần phải giâm hom giống 20-25 ngày cho ra rễ mới đem trồng. Người trồng có thể giâm cành bằng cách đem hom cắm xuống đống cát để trong bóng mát, khoảng cách trồng: 40 x 50 cm hoặc 50x50 cm. Mật độ của cây là khoảng 40.000 đến 50.000 cây/ha.