Để tận dụng, khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở địa phương như diện tích mặt nước, vật liệu làm lồng bè, nguồn thức ăn xanh và kinh nghiệm nuôi các loại cá nước ngọt của bà con nông dân, qua đó giúp bà con phát huy các lợi thế vốn có góp phần cải thiện và nâng cao đời sống, tăng thu nhập của hộ gia đình, trạm Khuyến nông ở nhiều tỉnh thành trên cả nước đã triển khai mô hình nuôi cá trắm cỏ thành công.
Điển hình như mô hình nuôi cá trắm cỏ của anh Trần Văn Nhân ở thôn Tây, xã Tịnh Sơn- huyện Sơn Tịnh (Quảng Ngãi). Gia đình anh có 3 lồng nuôi cá, mỗi lồng có thể tích khoảng 7 – 8 m3 nước. Khi tham gia mô hình anh được hỗ trợ 100% về con giống, vật tư và 30% thức ăn, sau khi thu hoạch anh sẽ được hưởng 100% tiền bán cá. Đến nay, cá trắm cỏ trong lồng của anh đã đạt trọng lượng bình quân 1kg/con. Anh tin tưởng sau khi thu bán, gia đình sẽ có lãi cao và sang năm sẽ có thêm kinh nghiệm để nuôi tốt hơn.
Gia đình chị Phạm Thị Huế, xã Hùng Thắng, huyện Bình Giang – Hải Dương nuôi thâm canh cá trắm cỏ với 2 ao nuôi, trong đó 1 ao có diện tích 2 sào làm ao ương cá giống, ao to với diện tích 7,5 sào để nuôi thâm canh. Chị Huế lựa chọn công thức nuôi ghép 700 con cá trắm + 200 con cá chép + 300 con cá trôi trong mỗi đợt nuôi. Thức ăn cho các loại cá đều là cỏ non và thóc mầm. Do cá giống đã được ương nuôi với kích cỡ to hơn, nên khi đưa sang ao nuôi thương phẩm chỉ sau 6 tháng đã cho thu hoạch. Cá trắm cỏ đạt trọng lượng 3,5 kg/con. Tổng nguồn thu từ 2 ao nuôi, chị Huế thu được 140 triệu đồng, trừ chi phí còn cho thu lãi 80 triệu đồng/lứa. Như vậy, mỗi năm gia đình chị thu lãi trên 100 triệu đồng từ mô hình này.
Để áp dụng thành công mô hình này, các hộ nuôi thuỷ sản cần tuân thủ đúng quy trình xử lý môi trường ao nuôi. Trước hết, khâu tẩy dọn ao phải làm thật tốt. Chuẩn bị ao theo các bước:
Tẩy dọn ao:Tát hoặc tháo cạn, dọn sạch cỏ, tu sửa bờ, đăng cống, vét bùn nếu lượng bùn quá nhiều. Bón vôi khắp đáy ao để diệt cá tạp và các mầm bệnh bằng cách rải đều từ 7 đến 10 kg vôi bột cho 100 m2 đáy ao.
Sau tẩy vôi 3 ngày, bón lót bằng cách rải đều khắp ao từ 20 - 30 kg phân chuồng và 50 kg lá xanh cho 100 mét vuông (loại lá cây thân mềm để làm phân xanh). Lá xanh được băm nhỏ rải đều khắp đáy ao, vùi vào bùn hoặc bó thành các bó nhỏ từ 5 đến 7 kg dìm ở góc ao. Lấy nước vào ao ngập từ 0,3 - 0,4 mét, ngâm 5 đến 7 ngày, vớt hết bã xác phân xanh, lấy nước tiếp vào ao đạt độ sâu 1 mét. Cần phải lọc nước vào ao bằng đăng hoặc lưới đề phòng cá dữ, cá tạp xâm nhập.
Thả cá giống: Có 2 thời kỳ thả cá giống :Vụ xuân từ tháng 2 đến tháng 3;Vụ thu từ tháng 8 đến tháng 9. Cần thả cá giống lớn, khoẻ mạnh, không sây xát, không có bệnh. Mật độ thả từ 1 - 2 con cho 1 mét vuông. Cỡ cá thả 8-10cm
Thức ăn: Thức ăn xanh gồm các loại cỏ, rong, bèo tấm, bèo dâu, lá chuối, lá sắn nên cho cá ăn đủ hàng ngày. Sau khi cá ăn cần vớt bỏ các cọng cỏ, cây, lá già cá không ăn được. Cho cá ăn thêm cám gạo, cám ngô... Cứ 100 con cho ăn từ 2 đến 3 kg thức ăn xanh, sau tăng dần theo sự lớn lên của cá bằng cách theo dõi hằng ngày.Muốn tăng trọng 1kg thịt cá trắm cỏ cần từ 30-40kg thức ăn xanh như: rong, cỏ, bèo...Với cỏ tươi cho ăn 30-40% trọng lượng thân; với rong, bèo cho ăn 70% trọng lượng thân.
Quản lý ao: Theo dõi thường xuyên bờ ao, cống thoát nước, xem mực nước ao vào các buổi sáng.Vào sáng sớm theo dõi xem cá có bị nổi đầu vì ngạt thở không, cá có nổi đầu kéo dài không. Nếu có, tạm dừng cho ăn và thêm nước vào ao.Khi thấy cá bị bệnh hoặc chết rải rác cần hỏi cán bộ kỹ thuật hoặc khuyến ngư để biết cách xử lý.
Thu hoạch: Sau 5 đến 6 tháng nuôi có thể đánh tỉa số cá lớn để ăn hoặc bán và thả bù cá giống để tăng năng suất nuôi. Phải ghi lại số lượng cá đã thu và thả lại sau mỗi lần đánh tỉa (ghi cả số con và số kg cá).
Cuối năm thu toàn bộ cá (có thể chọn những cá nhỏ giữ lại làm giống cho vụ nuôi sau). Sau khi thu hoạch toàn bộ phải ghi lại sản lượng cá thu được (bao gồm cả cá đánh tỉa và cá thu cuối năm) nhằm sơ bộ hạch toán trong quá trình nuôi để có cơ sở cho đầu tư tiếp ở vụ nuôi sau